Một sự đồng thuận chung hiện nay về nhận thức sự phát triển
bền vững của các quốc gia chính là sự cân bằng trong phát triển và hiệu quả
chung của nền kinh tế. Đây là nhận thức mới về hiện trạng và định hình xu hướng
phát triển của các quốc gia. Theo lý thuyết trước đây, phát triển kinh tế xã hội
được đo bằng tăng trưởng GDP hàng năm, tức là đo lường mức độ giao dịch và tận
dụng tài nguyên, do đó sẽ không thể đánh giá được hiệu quả thực sự của chỉ số
tăng trưởng. Lý luận phát triển cổ điển theo mô hình kinh tế công nghiệp cũ này
có gốc rễ sâu xa dựa trên giả thuyết là tài nguyên thiên nhiên là vô hạn, có thể
tái tạo và nguồn lực con người là khan hiếm. Về thực chất, đây là mô hình tăng
trưởng kinh tế theo chiều rộng, trái ngược với sự phát triển bền vững theo chiều
sâu.
Ngược lại, chúng ta đều biết rõ các nguồn tài nguyên thiên
nhiên là không thể tái tạo khi đã sử dụng như than đá, dầu hỏa… chính là những
nguồn năng lượng chính cho sự phát triển công nghiệp hóa của loài người cho đến
nay. Đầu thế kỷ 20 loài người chỉ có khoảng
1 tỷ người thì sắp tới trên trái đất sẽ có khoảng 10 tỷ người chung sống,
sẽ là một nguồn nhân lực gần như vô hạn! Các nguồn tài nguyên thiên nhiên được
dự báo sẽ rất sớm bị cạn kiệt do nhu cầu quá lớn. Hiện nay các nguồn năng lượng
tái sinh chỉ cung cấp chưa đến 40% nhu cầu năng lượng chung. Các nguồn năng lượng
khác như đá khí mêtan đưới đáy biển có chi phí sản xuất sẽ rất cao do độ sâu khai
thác lớn và tốn chi phí vận chuyển. Do đó, cần phải giảm bớt tối đa các nguồn
năng lượng hoá thạch và tăng cường dùng các nguồn năng lượng tái tạo mới như địa
nhiệt, phong điện… hướng đến sự cân bằng tổng thể trong tiêu thụ năng lượng của
nền kinh tế.
Đặt sự phát triển của Việt Nam trong sự phát triển chung của
thế giới, chúng ta cần nhận thức lại một số nền tảng cơ bản và xây dựng một học
thuyết phát triển cho đất nước. Học thuyết phát triển mới cần đảm bảo sự phát
triển bền vững của quốc gia, xác định ra một vị thế quốc gia để đem lại giá trị và tự hào dân tộc cho mỗi người Việt Nam.
Chúng ta cần một chủ thuyết phát triển đem lại sự cân bằng giữa phát triển và bền
vững, giữa dân giàu nước mạnh và xã hội công bằng, dân chủ và văn minh. Sự phát
triển bền vững phải bao gồm sự hiệu quả của nền kinh tế, không gây tổn hại đến
môi trường và hòa nhập với cộng đồng kinh tế toàn cầu nhằm đem lại lợi ích đôi
bên lâu dài cho các quốc gia, hình thành một hệ sinh thái kinh tế hợp tác toàn
cầu bền vững và hiệu quả.
Các nguồn tài nguyên tự nhiên như dầu lửa, than đá, khí đốt
cần phải biến thành các sản phẩm đầu vào công nghiệp, được sử dụng và tái tạo
nhiều lần. Theo nhà hóa học vĩ đại người Nga Dmitri Mendeleev, người phát minh ra bảng tuần hoàn nguyên tố hóa học,
thì việc đem đốt cháy các sản phẩm này là một sự lãng phí tuyệt đối nguồn tài
nguyên thiên nhiên. Việt Nam cũng có các nguồn dầu mỏ, than, khí… hiện chỉ được
đem dùng làm chất đốt là rất lãng phí. Các nguồn tài nguyên này cần được đưa
vào làm nguồn nguyên liệu cho các ngành hóa chất, hóa dầu để chế biến sâu đem lại
các sản phẩm cao cấp như tơ sợi nhân tạo, composit, hóa chất công nghiệp… để thực
hiện những việc này cần có tri thức và công nghệ từ đó hình thành sự phát triển
theo chiều sâu đem lại hiệu quả kinh tế cao. Hiện nay chúng ta đang xuất thô
các nguồn tài nguyên quốc gia một cách rất lãng phí. Sắp tới các nguồn nguyên
liệu sẽ có giá cả ngày càng tăng do nhu cầu của thế giới là rất lớn trong khi
các nguồn cung ngày càng ít và khó khai thác.
Nhận thức mới về sự phát triển là phải giảm sự lệ thuộc vào
nguồn năng lượng không tái sinh và sử dụng rất tối ưu các nguồn năng lượng hiện
có. Nhất thiết phải tăng cường hiệu suất sử dụng năng lượng công nghiệp nói
chung, tiết giảm các ngành tiêu thụ năng lượng cao và kém hiệu quả như nấu luyện
thép, xi măng. Các ngành công nghiệp hiện dùng tới hơn 80% nguồn năng lượng quốc
gia, có mức tiêu thụ năng lượng bình quân cao hơn 30% các nước ASEAN. Nghĩa là
hàng năm chúng ta đang mất khoảng 24% trong tổng nguồn cung năng lượng quốc
gia, đây là một con số thiệt hại rất lớn cho nền kinh tế. Mặt khác, do giá cả
năng lượng quá thấp cũng không tạo động lực tiết kiệm và sử dụng hiệu quả năng
lượng trong toàn bộ nền kinh tế, là một yếu tố làm giảm tăng trưởng bền vững.
Tốc độ tăng trưởng bền vững tối ưu của Việt Nam cần vào khoảng
6% là phù hợp.
Với tốc độ phát triển vừa phải ta sẽ có hiệu quả sử dụng nguồn vốn
tối ưu nhất và làm giảm áp lực phải huy động nguồn vốn đầu tư quá lớn. Trong thời
gian sắp tới, các quốc gia đang phát triển sẽ phải cạnh tranh nhau gay gắt để
có nguồn vốn phát triển kinh tế. Quốc gia nào có hiệu quả sử dụng vốn tối ưu sẽ
giành được nhiều ưu thế. Trong khả năng đầu tư tối đa vào khoảng 36% GDP và nếu
phân bổ tốt nguồn vốn thì hiệu quả chung nền kinh tế sẽ đạt được ICOR=6 thì tăng
trưởng GDP khoảng 6% là hoàn toàn khả thi. Với tốc độ tăng trưởng 6% chúng ta sẽ
đảm bảo được vấn đề xã hội rất quan trọng là vấn đề tạo việc làm. Mặt khác, với
việc đẩy mạnh xuất khẩu lao động, cũng sẽ làm giảm áp lực tạo việc làm hàng
năm. Lực lượng xuất khẩu lao động cũng sẽ đem lại nguồn kiều hối hàng năm rất lớn.
Như vậy, việc xuất khẩu lao động cần được nhìn nhận một cách chính thức là một
ngành kinh tế mũi nhọn cần được đầu tư và phát triển một cách lâu dài và có chiến
lược phù hợp với việc tạo và giữ thương hiệu lao động Việt Nam, chất lượng lao
động, hoàn thiện hệ thống đào tạo lao động xuất khẩu.
Một yếu tố có ảnh hưởng rất lớn đến hiệu quả chung của nền
kinh tế chính là hiệu quả của hệ thống hành chính và vai trò của nhà nước. Đề
án 30 về cải cách hành chính cần phải có sự đột phá trong tư duy nhằm đem lại một
chính quyền hiệu quả và là động lực hỗ trợ mạnh mẽ cho phát triển kinh tế xã hội.
Thực chất, chính sự kém hiệu quả của hệ thống hành chính là yếu tố làm ICOR (hệ
số sử dụng vốn đầu tư) của Việt Nam hiện nay rất cao, khi toàn thể xã hội bị
níu kéo bởi một hệ thống hành chính chậm chạp và quá phức tạp. Chúng ta cần
tham khảo các mô hình quản trị nhà nước hiệu quả của Anh, Pháp, Singapore,
Hongkong, Úc để học hỏi kinh nghiệm và mạnh dạn thí điểm áp dụng cải cách hành
chính toàn diện tại Đà Nẵng, Vũng Tàu, Bình Dương, Phú Quốc, Dung Quất để đánh
giá kết quả. Trên cơ sở đó hình thành một thể chế chính quyền kiến tạo phát triển
cho quốc gia. Để làm được việc này cần có đột phá tư duy mạnh mẽ, cần phải xây
dựng một nền hành chính hiệu quả dựa trên cơ sở quản trị hiện đại và tinh gọn,
từ đó xây dựng một chính quyền điện tử mạnh và chính phủ điện tử hiệu quả.
Trung Quốc cũng đã có khá nhiều kinh nghiệm xây dựng chính quyền mạnh và hiệu
quả tại Bắc Kinh, Thượng Hải.
Lãng phí mang tính hệ thống khác là khối Tập đoàn kinh tế và
DNNN đang nắm giữ 65% nguồn lực quốc gia, hiện có hiệu suất sử dụng nguồn vốn
thấp, có thể nói là hiệu quả kinh tế âm với chỉ có vài DNNN là thực sự có chỉ số
hiệu quả kinh tế EVA (Economic Value Added) dương. Do đó rất cấp thiết phải xác
định các yếu tố then chốt để tái cấu trúc khối DNNN theo hướng hiệu quả, tinh gọn,
hiện đại, năng lực cạnh tranh cao, có khả năng dẫn dắt chiến lược kinh tế quốc
gia. Các DNNN còn phải là nơi dẫn đầu trong việc áp dụng khoa học công nghệ,
sáng tạo đổi mới để có năng lực phát triển theo chiều sâu. Các nhiệm vụ cụ thể
là phải hình thành sản phẩm thương hiệu quốc gia cho các nguồn lực mà DNNN đang
quản lý bao gồm: dầu mỏ,khoáng sản, than đá, cà phê, cao su, lúa gạo… Khối DNNN
này trước hết phải làm được công tác quản lý giá cả xuất khẩu thông qua các
thông tin kịp thời về sản xuất trong nước và dự báo tốt xu hướng nhu cầu thế giới,
đó chính là những tri thức và hiểu biết sâu sắc về thị trường. Định hướng chung
là đến năm 2020 chúng ta sẽ có nền kinh tế phát triển hoàn thiện và cân bằng
XNK. Mục tiêu chiến lược đó chỉ có thể đạt được khi tăng cường giá trị các sản
phẩm xuất khẩu để cân bẳng với nhu cầu nhập khẩu các sản phẩm cho đầu vào nền
kinh tế và có tiền để trả nợ ODA, FDI.
Một nhận thức mới để phát triển chính là thị trường nội địa sẽ
có gần 100 triệu khách hàng, đây là một thị trường tiêu thụ khá lớn và dễ tính
bên cạnh các thị trường nước ngoài đang ngày càng khó khăn hơn. Các tập đoàn nước
ngoài cũng đang tăng tốc khai thác thị trường Việt Nam khi sắp đến thời hạn phải
mở cửa thị trường nội địa cho các sản phẩm và dịch vụ quốc tế theo các cam kết
gia nhập WTO. Sự phát triển thị trường trong nước chính là sự phát triển bền vững
cho doanh nghiệp, cân bằng các thị trường để không quá lệ thuộc vào các thị trường nước ngoài. Trong các thị
trường xuất khẩu, các thị trường mới nổi như Trung Quốc, Nga, Ấn Độ, Đông Âu,
Trung Đông sẽ có tốc độ tăng trưởng tốt hơn các thị trường cũ như EU, Mỹ, Nhật…
Các thị trường mới này đòi hỏi doanh nghiệp phải làm tốt hơn các công tác tiếp
thị, có sản phẩm phù hợp và phải có các đối tác kinh doanh tin cậy. Khi giải
quyết được các vấn đề này thì hiệu quả sẽ rất lớn khi mở ra một thị trường và
hướng phát triển mới.
Các sản phẩm nông nghiệp như cà phê, chè, lúa gạo, trái cây,
thuỷ hải sản… cần được chế sâu hơn thành các sản phẩm có thương hiệu lớn để đem
lại giá trị kinh tế cao hơn. Hiện nay, chỉ khoảng 10% các sản phẩm nông sản là
được chế biến sâu và có thương hiệu. Còn lại là chủ yếu xuất thô với giá trị
kinh tế không cao, cũng không kiểm soát được giá cả và thị trường tiêu thụ. Cần
xem xét các sản phẩm này là đầu vào cho
các ngành kinh tế chế biến, tạo ra sản phẩm nông nghiệp cao cấp có tầm thương
hiệu quốc gia như: Hoa tuylip Hà Lan, Gạo thơm Thái Lan, Chè đen Sri Lanka, Rượu
vang Pháp, Chuối Bahamas…
Nông nghiệp hiện đại và bền vững được nhìn nhận là một nền
nông nghiệp sinh thái, thân thiện môi trường, không lạm dụng các hoá chất và sử
dụng thuốc trừ sâu một cách bừa bãi. Các sản phẩm nông nghiệp sinh thái có giá
trị cao đều không dùng hoá chất độc hại mà sử dụng các chế phẩm sinh học thân
thiện môi trường. Các trang trại qui mô nhỏ, có nhiều nông dân am hiểu về công
nghệ nông nghiệp sinh thái sẽ có nhiều ưu thế để sản xuất ra các sản phẩm nông
nghiệp sinh thái cao cấp đạt được GlobalGAP. Các quy trình sản xuất nông nghiệp
sinh thái không yêu cầu nguồn vốn đầu tư lớn, tuy nhiên cần phải tuân thủ
nghiêm ngặt các quy định về sản xuất sạch, bảo vệ môi trường và kiểm soát truy
nguyên nguồn gốc nông sản. Các sản phẩm nông nghiệp sinh thái đều có giá trị
kinh tế rất cao và thị trường tiêu thụ ngày càng lớn. Theo Tiến sĩ nông học
Nguyễn Quốc Vọng, các trang trại lớn với sản phẩm thâm canh và các sản phẩm biến
đổi gien sẽ rất khó chen chân vào các thị trường cao cấp như Nhật, EU. Thậm chí
các quốc gia này sẽ không cho phép các nông sản chế biến liên quan biến đổi
gien được nhập khẩu. Việt Nam với chiến lược sản phẩm nông nghiệp sinh thái giá
trị cao sẽ rất bất lợi nếu các sản phẩm nông nghiệp bị xem là có các thành phần
biến đổi gien, thậm chí có thể bị cấm nhập khẩu vào các thị trường này như một
số sự việc đã xảy ra khi Nhật cấm nhập khẩu bánh tráng Việt Nam bị phát hiện có
dùng bột bắp biến đổi gien.
Về bản chất, sự phát triển theo chiều sâu chính là nền tảng
của phát triển bền vững. Sự phát triển theo chiều sâu đòi hỏi phải sử dụng tri
thức nhiều hơn là nguồn vốn, cần có những hiểu biết hoàn chỉnh và thông tin
chính xác, với vai trò quyết định của các chuyên gia và trí thức đầu ngành. Những
yếu tố này gắn bó mật thiết với việc sử dụng thông tin và ứng dụng hiệu quả
CNTT và truyền thông trong toàn xã hội. Để phát triển theo chiều sâu, kinh nghiệm
từ các quốc gia như Nhật, Pháp, Đức, Mỹ, Thuỵ Điển đó chính là vai trò của tri
thức trong nền kinh tế. Những tri thức về công nghệ, quản trị, những chuyên gia
đầu ngành đã hình thành nên những sản phẩm công nghệ cao, hệ thống quản trị hiệu
quả. Nòng cốt của nền kinh tế tri thức chính là những doanh nghiệp có năng lực
đổi mới và sử dụng có hiệu quả tài nguyên tri thức, là hệ thống viện nghiên cứu
và các trường đại học đào tạo ra trí thức và cung cấp môi trường nghiên cứu cần
thiết. Đỉnh cao tri thức của mỗi quốc gia chính là Viện Hàn Lâm Quốc Gia, nơi tập
hợp trí thức tinh hoa hàng đầu, là nguồn gốc của những tư tưởng lớn và trí tuệ
kiệt xuất, đem lại niềm tự hào dân tộc như Viện Hàn Lâm Quốc Gia Anh, Pháp,
Nga, Thuỵ Điển. Như vậy, Viện Hàn Lâm Quốc Việt Nam sẽ là nơi tập hợp trí tuệ
hàng đầu của đất nước, đóng vai trò nhận thức và phản biện cho những vấn đề
then chốt mang tầm chiến lược quốc gia và đó sẽ là biểu tượng mới của tri thức
và trí tuệ Việt Nam.
Các nhà khoa học Việt Nam đã có vai trò rất lớn trong việc
đóng góp cho sự phát triển của nền kinh tế. Thành quả của nền kinh tế nông nghiệp
hiện nay chính là nhờ công sức của rất nhiều thế hệ nhà khoa học nông nghiệp Việt
Nam khởi đầu từ giữa những năm 1950 của thế kỷ trước. Các thành tích quốc tế của
ngành toán học, vật lý, y học… gần đây cũng đã cho thấy tiềm năng rất lớn của
trí thức Việt Nam. Những kết quả tốt đẹp này chính là từ tầm nhìn chiến lược và
sáng suốt của các nhà lãnh đạo trước đây, trong hoàn cảnh đất nước còn nhiều
khó khăn đã đầu tư một cách có hệ thống vào các ngành khoa học và các thế hệ những
nhà khoa học đầu ngành. Chúng ta đang có những tập đoàn xây dựng, dầu khí, viễn
thông, hàng không, du lịch thuộc nhóm đầu khu vực và thế giới, đó chính là những
nền tảng quan trọng để phát triển và làm chủ kinh tế quốc gia. Những doanh nghiệp
này đều có thành tích tốt trong việc sử dụng tri thức, áp dụng công nghệ cao và
có hệ thống quản trị doanh nghiệp hiện đại, hiệu quả.
Trong sự phát triển của các quốc gia với các điều kiện khách
quan và môi trường toàn cầu đã thay đổi một cách căn bản và được liên kết hệ thống
chặt chẽ với nhau qua các thể chế kinh tế chính trị đa dạng và ngày càng phức hợp,
Việt Nam cần tận dụng tối ưu các nguồn lực và ưu thế để tìm cho mình một con đường
phát triển bền vững, giữ được độc lập chủ quyền kinh tế trong sự hoà hợp và kết
nối toàn cầu hoá. Người Việt Nam thông minh, khéo léo và dũng cảm cần tìm cho
mình một vị thế phù hợp trong một thế giới hiện đại đang phát triển nhanh
chóng. Để làm được việc đó, chúng ta cần xác định cho mình một học thuyết để
phát triển, một động lực để phát triển đó chính là sự phát triển bền vững của
chính đất nước Việt Nam và chúng ta có niềm tin và hy vọng về một sự hoá rồng của
đất nước.
SG.02.2012
Labels: development, innovation, policy, reform, resource, strategy, study, vietnam