BLUE STRATEGY GROUP

Strategy :: Technology :: Organization :: Innovation :: Policy

Friday, February 25, 2011

Bàn về lời giải cho bài toán lạm phát 2011


Nghị quyết của Chính phủ về việc thực hiện những giải pháp tập trung kiềm chế lạm pháp, ổn định kinh tế vĩ mô, đảm bảo an sinh xã hội trong năm 2011 với mục tiêu chính là tập trung ưu tiên kiềm chế lạm phát đã khá rõ ràng và dứt khoát.
Có thể nhận thấy đây là một quyết tâm rất lớn của Chính phủ và toàn thể xã hội trong mục tiêu kìm giữ lạm phát và ổn định kinh tế vĩ mô thông qua các giải pháp đồng bộ. Lạm phát cao có tác hại rất lớn vì sẽ làm xoá bỏ những thành tựu kinh tế và làm bất ổn xã hội. Lãi suất cao làm giảm hoạt động kinh tế sản xuất dịch vụ dẫn đến giảm tăng trưởng.
Do đó, rất cần thiết phải nhanh chóng giảm lạm phát và kéo giảm lãi suất cao thông qua việc cắt giảm mạnh tổng tín dụng đầu tư của cả khối nhà nước và tư nhân.

Để các chủ trương và chính sách kiềm chế lạm phát đem lại hiệu quả tốt nhất thì việc thắt chặt tài chính phải thực hiện hết sức quyết liệt, đồng bộ nhịp nhàng và nhất quán trong toàn bộ nền kinh tế. Về thứ tự thực hiện các giải pháp, cần ưu tiên cắt giảm mạnh đầu tư để hạ nhiệt nền kinh tế, kéo giảm lãi suất ngân hàng. Trên cơ sở đó, thực hiện chính sách tiền tệ thắt chặt làm giảm lạm phát từ đó bình ổn tỷ giá.
Nhu cầu vốn từ DN vẫn rất lớn, cung không đủ cầu.
Khó giảm lãi suất nếu nhu cầu vốn vẫn cao
Chính phủ và các tỉnh phải nghiêm túc thực hiện chính sách tài khoá thắt chặt bao gồm giảm 10% chi tiêu công, giảm bội chi ngân sách dưới 5%, cắt giảm các dự án đầu tư công sẽ làm giảm đáng kể nhu cầu tín dụng. Kiên quyết thực hiện chính sách thắt chặt tài chính – tín dụng – đầu tư sẽ cho phép giảm nhu cầu vốn đầu tư khối nhà nước và tư nhân. Từ đó sẽ cho phép kéo giảm lãi suất ngân hàng và trái phiếu chính phủ.
Trong thực tế, mặc dù lãi suất lên rất cao nhưng nhu cầu vốn từ DN vẫn rất lớn, cung không đủ cầu, do đó rất khó kéo giảm lãi suất nếu nhu cầu vốn vẫn còn quá cao như hiện nay.
Cắt giảm mạnh mẽ đầu tư thông qua trái phiếu chính phủ và trái phiếu doanh nghiệp. Chỉ cấp vốn cho các dự án đang triển khai dở dang hay thật cấp bách, ngừng đầu tư các dự án mới hay mở rộng dự án. Đầu tư thông qua trái phiếu sẽ đem lại cạnh tranh lãi suất rất cao cho hệ thống tài chính tín dụng do lãi suất trái phiếu thường phải cao hơn lãi suất ngân hàng.
Hơn nữa, lượng trái phiếu lớn có khả năng làm tăng lạm phát khi các NHTM thế chấp trái phiếu để rút vốn ra kinh doanh, gây khó khăn cho mục tiêu kiểm soát tăng trưởng tín dụng và giảm tổng phương tiện thanh toán.
Giảm bội chi USD
Ổn định tỷ giá VND/USD thông qua cắt giảm nhu cầu USD cho các hoạt động đầu tư và tiêu dùng của toàn xã hội. Khi ổn định được tỷ giá và hết nhập siêu, thì giá cả hàng hoá nhập khẩu sẽ ổn định và không gây ra lạm phát. Nếu tiếp tục giữ mức bội chi USD cao như hiện nay sẽ gây áp lực thường trực lên tỷ giá VND/USD và tiếp tục làm mất giá VND như hiện nay.
Các biện pháp giảm bội chi USD gồm: giảm mạnh nhập siêu, hỗ trợ hoạt động kiều hối và nhanh chóng giải ngân các dự án ODA, FDI.
Phải giảm tổng mức đầu tư xã hội xuống còn 30-35% GDP (tương đương 200.000 tỷ VND) trên cơ sở cắt giảm tối đa các dự án đầu tư công có hệ số sử dụng vốn ICOR cao. Dành nguồn vốn đầu tư cho các lĩnh vực có hệ số tăng trưởng cao như tín dụng xuất khẩu, tín dụng nông nghiệp, tín dụng sản xuất và cấp thêm vốn cho các quỹ bình ổn giá cả.
Thông qua cắt giảm tổng mức đầu tư khoảng 200.000 tỷ VND sẽ làm giảm bội chi ngoại hối 4 tỷ USD tương ứng với nhập siêu chỉ còn 8-10 tỷ USD (tương đương 10% kim ngạch xuất khẩu). Số ngoại tệ USD tiết kiệm được cần đưa vào Quỹ dự trữ ngoại hối quốc gia (tương đương khoảng 20-25% GDP bao gồm ngoại tệ và vàng). Trên cơ sở dự trữ đó, giá trị VND và tỷ giá VND/USD sẽ được ổn định vững chắc.
Tổng cung tiền tệ giảm chủ yếu thông qua tăng tỷ lệ dự trữ bắt buộc sẽ làm giảm cung tiền theo hệ số nhân tiền tệ tương ứng. NHNN bắt buộc phải nắm chính xác tỷ lệ dự trữ hiện tại của các NHTM và đưa ra mức dự trữ cần thiết. Tăng trưởng tín dụng dưới 20% và giữ mức tăng phương tiện thanh toán dưới 15% để giảm sức ép lạm phát. Tuỳ theo tình hình thanh khoản của các ngân hàng có thể cho phép giảm tỷ lệ dự trữ bắt buộc làm tăng lượng tiền lưu thông. Sau khi đã giảm hết các khoản dự trữ mới cho phép tăng phương tiện thanh toán lên trên 15%. Phải đảm bảo còn dự trữ tăng trưởng phương tiện thanh toán trong trường hợp NHNN phải mua vào trái phiếu mà không gây lạm phát.
Thông qua giảm cắt giảm đầu tư và bội chi ngân sách xuống dưới 5% sẽ góp phần kéo giảm lạm phát xuống 1-2%. Việt Nam hiện đang nhập siêu khá lớn, lên đến 18% kim ngạch xuất khẩu, vì vậy sẽ bị ảnh hưởng nặng nề khi giá cả thế giới tăng cao. Giảm nhập siêu xuống 8-10 tỷ USD sẽ làm giảm lạm phát thêm 1-2% nữa. Theo tính toán trên, với mức kéo giảm lạm phát (là mức tăng giá chung) xuống 2-4% thì chỉ số CPI trong năm 2011 sẽ vào khoảng 8-10%, từ mức 12% của năm 2010.
Triển khai mạnh hoạt động bình ổn giá trên phạm vi cả nước sẽ làm giảm đáng kể chỉ số giá tiêu dùng CPI và lạm phát.

Hỗ trợ các mặt hàng cần bình ổn giá
Để làm giảm tác động của lạm phát và lãi suất cao lên nền kinh tế, cần thực hiện các biện pháp quản lý hành chính giá cả, kiểm soát chặt chẽ ngoại hối và tăng cường các hoạt động kinh tế:
Triển khai hỗ trợ tín dụng sản xuất cho các mặt hàng chiến lược cần bình ổn giá cả. Thông qua việc cung cấp tín dụng hỗ trợ sản xuất và hỗ trợ lãi vay cho doanh nghiệp kinh doanh các hàng hoá thiết yếu này sẽ làm tăng cung tổng hàng hoá, giữ cho chỉ số giá cả các hàng hoá CPI ổn định và làm giảm lạm phát.
Các chương trình tín dụng phục vụ xuất khẩu và phát triển nông nghiệp được tăng cường sẽ đem lại hiệu quả cao làm gia tăng sản phẩm nông nghiệp và tăng cường xuất khẩu đem lại USD làm giảm nhập siêu. Tỷ trọng giá trị USD trong các sản phẩm nông nghiệp xuất khẩu chỉ vào khoảng 20-30% so với tỷ trọng 40-60% giá trị của các sản phẩm xuất khẩu khác, sẽ đem lại hiệu quả xuất khẩu cao và làm giảm nhu cầu USD.
Thực hiện mở rộng các chương trình bình ổn giá cả làm giảm chỉ số hàng tiêu dùng. Hiệu quả của các chương trình bình ổn giá cả đã được chứng minh trong năm 2010. Chương trình bình ổn tại TP.HCM và Hà Nội làm chỉ số CPI tăng thấp so với các nơi khác.
Do đó triển khai mạnh hoạt động bình ổn giá trên phạm vi cả nước sẽ đem lại hiệu quả cao hơn nữa, góp phần làm giảm đáng kể chỉ số giá tiêu dùng CPI và lạm phát. Nguồn tài chính cho các chương trình tín dụng xuất khẩu, tín dụng nông nghiệp, tín dụng sản xuất và quỹ bình ổn giá sẽ lấy từ khoản 200.000 tỷ VND cắt giảm tín dụng đầu tư.
Các giải pháp tài chính thắt chặt phải thực hiện đồng bộ và kiên quyết nhất quán từ cấp chính phủ, địa phương và các doanh nghiệp. Trong đó, các công tác cắt giảm đầu tư, chi tiêu của chính phủ, chính sách tiền tệ của NHNN cần được thực hiện đồng bộ để đem lại hiệu quả tác động cao nhất. Tại các địa phương, công tác giải ngân cho các dự án ODA, FDI cần được đẩy mạnh để nhanh chóng đưa các nguồn vốn đầu tư nước ngoài vào nền kinh tế.
Doanh nghiệp, hiệp hội cần chú ý theo dõi diễn biến giá cả thế giới và dự báo giá cả của các tổ chức thông tin chuyên ngành để có giá cả xuất khẩu cao nhất.
Tạm hoãn cấp vốn đầu tư cho các dự án đầu tư ra nước ngoài, các dự án đầu tư mới của DNNN trừ khi tìm được nguồn vốn trái phiếu USD huy động từ các tổ chức tín dụng quốc tế.
Nhiệm vụ tăng giá điện, than, xăng dầu nên được thực hiện một cách linh hoạt và có phạm vi giãn cách lớn – khoảng 03 tháng – tránh gây áp lực cùng một lúc lên hệ thống kinh tế có thể gây mất ổn định vĩ mô. Trong thực tế, với giá năng lượng đầu vào rẻ như hiện nay thì việc tăng giá các mặt hàng này cũng thúc đẩy việc sử dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu quả hơn.
Tuy nhiên mức tăng giá cả nên vừa phải và chấp nhận được với nền kinh tế còn đang yếu như hiện nay.
Cơ hội sàng lọc doanh nghiệp yếu kém
Kinh tế Việt Nam sẽ trải qua một năm 2011 nhiều khó khăn với các doanh nghiệp khi các nguồn vốn và nhu cầu thị trường bị thu hẹp. Trong hoàn cảnh này, chỉ có các doanh nghiệp mạnh với hệ thống quản trị tốt, tài chính lành mạnh, có thị trường và khách hàng ổn định mới có thể tồn tại và phát triển. Từ đó sàng lọc ra được những doanh nghiệp thật sự tốt.
Đặc biệt đối với khối DNNN, sẽ bộc lộ rõ những yếu kém khuyết điểm mà trong điều kiện kinh tế bình thường sẽ khó thấy. Trên cơ sở đó, các biện pháp tái cấu trúc, nâng cao hiệu quả của khối DNNN sẽ được đề ra một cách mạnh mẽ và toàn diện.
Hiệu quả tác động của chính sách tiền tệ thắt chặt và cắt giảm đầu tư sẽ có kết quả rõ ràng nhất vào cuối quý III/2011. Từ đó có thể xem xét giảm dần lãi suất trong quý IV/2011 để có nguồn vốn cho hoạt động sản xuất dịch vụ sẽ tăng mạnh vào cuối năm 2011.
Những khó khăn và bất ổn trong nền kinh tế Việt Nam hiện nay thực chất đã được tích luỹ từ nhiều năm qua, nhất là trong giai đoạn 2007-2010. Do đó chính phủ cần tập trung nỗ lực để giải quyết trong năm 2011 với lòng quyết tâm và kiên định cao nhất. Kinh nghiệm trong năm 2010 cho thấy, khi chính sách tài khoá tiền tệ được nới lỏng, thì cuối năm lạm phát và lãi suất đã tăng vọt lên. Phải chấp nhận hy sinh tăng trưởng trong ngắn hạn để điều chỉnh vĩ mô cho nền kinh tế: giảm lạm phát, lãi suất, tỷ giá, tăng dự trữ ngoại tệ và điều chỉnh giá cả năng lượng để giữ được ổn định an sinh xã hội.
Với tất cả những khó khăn khách quan của kinh tế thế giới, khi USD có thể tăng giá và các nguồn vốn đầu tư bị rút về, những thách thức của nền kinh tế Việt Nam trong việc đảm bảo ổn định vĩ mô, giữ lạm phát thấp một con số và kéo giảm lãi suất thì tăng trưởng GDP 5-6% sẽ là một thành công trong công tác điều hành kinh tế năm 2011.
Nguyễn Anh Tiến
SG.02.2011

Labels: , ,

Sunday, February 20, 2011

Năm 2011 chỉ nên tăng GDP 5-6%


(VEF.VN) - Trong bối cảnh lạm phát trên thế giới có xu hướng tăng cao, Việt Nam cần cân đối trong phân bổ đầu tư giữa hạ tầng, phúc lợi công cộng và hiệu quả kinh tế từ đó có tốc độ tăng GDP hợp lý. Mức độ tăng trưởng thế nào là phù hợp với bối cảnh hiện nay cũng như năng lực sản xuất của Việt Nam?

LTS: Rất nhiều độc giả gửi ý kiến cùng tranh luận chuyên gia Bùi Kiến Thành và bài viết phản biện của TS. Nguyễn Quang A về lãi suất và CPI (chỉ số giá tiêu dùng). Diễn đàn Kinh tế Việt Nam chọn đăng bài viết của tác giả Nguyễn Anh Tiến(*), với quan điểm riêng của ông về mối quan hệ giữa lãi suất, lạm phát và tăng trưởng trong bối cảnh hiện nay . Mời độc giả tham khảo và tiếp tục tranh luận quanh chủ đề này. 

Mọi ý kiến xin gửi về: vef@vietnamnet.vn. 

Bắt buộc phải giảm lãi suất trái phiếu

Hiện nay vấn đề phát triển (tăng trưởng GDP) của Việt Nam đang phải cân nhắc giữa đầu tư cho phát triển và tiêu dùng xã hội. Trong chính sách phát triển thông qua kích cầu hiện nay của Việt Nam, chủ yếu tăng trưởng sẽ đạt được nhờ các dự án đầu tư được cấp vốn thông qua trái phiếu chính phủ. Năm 2010 số vốn đầu tư qua trái phiếu chính phủ đã lên đến 400.000 tỷ VND; với bình quân lãi suất trái phiếu VND lên đến 10% thì hàng năm, NHNN sẽ phải phát hành thêm 40.000 tỷ VND để trả lãi. Như vậy, trong năm 2010 mức tăng tín dụng do đầu tư lên đến 440.000 tỷ VND. Với tổng mức tăng trưởng tín dụng là 30% tương đương 600.000 tỷ VND (tổng tín dụng hệ thống là 2.000.000 tỷ VND), phần đầu tư của trái phiếu chính phủ đã chiếm rất lớn trong tổng tăng trưởng tín dụng hệ thống. Do đó, muốn có thêm tiền để chi tiêu các ngân hàng bắt buộc phải tăng lãi suất VND lớn hơn lãi suất trái phiếu để hút tiền về.  

Chính vì lý do cạnh tranh lẫn nhau này đã dẫn đến lãi suất trái phiếu lên đến 10% như hiện nay. Muốn giảm lãi suất ngân hàng, bắt buộc phải giảm lãi suất trái phiếu bằng cách giảm đầu tư dùng nguồn vốn trái phiếu chính phủ. Tốt nhất là lãi suất trái phiếu nên vào khoảng 5%, từ đó tính ra nhu cầu phát hành trái phiếu chính phủ cho phù hợp. Nếu Ngân hàng Nhà nước (NHNN) cứ tiếp tục phát hành các phương tiện thanh toán như được cho phép tăng đến 25% mà không giảm tương ứng số tiền lãi trái phiếu chính phủ đã thanh toán (là lượng VND đã phát hành thêm) thì sẽ gây lạm phát VND. Tương tự như khi các nguồn vốn lớn khoảng 3 tỷ USD (khoảng 48.000 tỷ VND) từ nước ngoài đổ vào TTCK năm 2007, NHNN đã phải bán ra lượng VND tương ứng cũng đã gây ra lạm phát do tăng cung thanh toán lớn hơn tăng GDP, gây ra CPI tăng cao trong năm 2008. 

Tuy nhiên lạm phát VND sẽ gây ra mức tăng CPI khác nhau tùy thuộc vào tình hình cụ thể trong nước và thế giới. Khó kiềm chế CPI do lạm phát Muốn giảm lạm phát phải giảm tổng cung VND. Theo công ước Basel3, vào tháng 10/2010, NHNN đã yêu cầu các ngân hàng thương mại tăng dự trữ bắt buộc VND từ 8% lên 9%, tương đương giảm 20.000 tỷ VND trong tổng cung thanh toán. 

Nếu tiếp tục tăng tỷ lệ dự trữ bắt buộc của ngân hàng thương mại bằng trái phiếu có nghĩa là khối tư nhân giảm chi tiêu, để dành số tiền này cho chi tiêu đầu tư công thông qua việc NHNN sẽ tái cấp vốn này (dự trữ bắt buộc của NHTM) cho các dự án đầu tư khác hay trả lãi vay qua trái phiếu; ngân hàng thương mại sẽ nhận được lãi suất trái phiếu dự trữ bắt buộc. 

Áp lực lạm phát cũng giảm khi chỉ cho phép tăng trưởng tín dụng 20% (bình quân giai đoạn 2001-2006) thay vì 30% (bình quân giai đoạn 2007-2010) như hiện nay, có nghĩa là phải giảm mức tăng chi tiêu dùng xuống 10% tương đương khoảng 200.000 tỷ VND - số tiền (hàng hóa) này dùng cho các khoản đầu tư qua trái phiếu chính phủ hàng năm. 

Theo kế hoạch tín dụng năm 2011 của NHNN, thì mức tăng tín dụng sẽ được cho phép là 23% (có xu hướng giảm tăng tín dụng hệ thống xuống còn 20%), tăng phương tiện thanh toán là 21-24% cũng làm giảm áp lực tăng lãi suất và lạm phát trong năm tới. Với tính toán tổng thể, có thể nhận định trong thời gian tới đây tổng đầu tư qua trái phiếu chính phủ không nên vượt quá 200.000 tỷ VND/năm. 

Tuy nhiên trong kế hoạch đầu tư dùng nguồn vốn trái phiếu chính phủ năm 2011, lại thấy tổng đầu tư dùng vốn trái phiếu lên đến 600.000 tỷ VND, điều đó gây áp lực lớn lên hệ thống kinh tế. Giá cả vật tư nguyên liệu thế giới tăng 30-40% do lạm phát USD (Mỹ đã bơm 2300 tỷ USD tiền mặt vào thị trường gây ra lạm phát làm giá cả thế giới tăng cao) và do tổng dự trữ ngoại tệ khá thấp chỉ đảm bảo cho thanh toán nhập khẩu 8-10 tuần (khoảng 16 tỷ USD) gây ra thâm hụt tài khoản vãng lai. 

Lượng dự trữ USD thấp nên khi giá thế giới tăng dẫn đến thiếu USD để thanh toán ngoại hối, làm tăng giá USD so với VND trong khi USD cũng đang bị mất giá trên thế giới. Khi lượng lớn tiền VND bị hút về để mua USD sẽ làm thiếu tiền VND trong hệ thống ngân hàng, do đó các ngân hàng thương mại lại phải tăng lãi suất để hút VND về nhằm đảm bảo thanh khoản và chi tiêu. Vì vậy, tăng lãi suất VND lại có thêm nguyên nhân do thiếu USD phục vụ cho thanh toán ngoại hối. Khi các NHTM cùng tăng lãi suất để hút nguồn vốn VND và USD về mình sẽ dẫn đến cuộc chiến lãi suất giữa các ngân hàng như hiện nay. Với lãi suất cho vay VND lên đến 18%/năm, thì chỉ có những dự án siêu lợi nhuận hay thật cấp bách mới dám sử dụng, do đó sẽ làm giảm sản xuất dẫn đến giảm lượng hàng cung cấp, làm giảm tổng cung. 

Nguyên nhân tăng CPI (chỉ số giá cả chung, hàm ý bao gồm hàng hóa và nguyên liệu) là do chênh lệch cung - cầu tăng mạnh, do gia tăng đầu tư (làm tăng cầu) và lãi suất tăng cao (làm giảm cung). Lạm phát VND làm giá nguyên vật liệu trong nước tăng và lạm phát USD làm giá nguyên vật liệu nhập khẩu tăng. Như vậy lạm phát VND sẽ gây tác động kép lên CPI do giá đầu vào và giá bán ra đều tăng. 

CPI tăng do chênh lệch cung - cầu (vi mô) có thể kiểm soát một phần thông qua các chương trình bình ổn giá (như đã thực hiện tại TP.HCM và Hà Nội), tuy nhiên CPI tăng do lạm phát (vĩ mô) thì sẽ không kiềm chế được lâu. 

Để tăng dự trữ USD và giảm nhu cầu USD nhằm cân bằng thanh toán ngoại hối (tổng thu chi USD quốc gia phải cân bằng), nhằm ổn định tỷ giá USD/VND bắt buộc cả hai khối phải giảm chi tiêu USD thông qua hai cách: 

1. Tăng tỷ giá USD/VND để giảm chi tiêu của khối tư nhân do mua hàng trong nước rẻ hơn nhập khẩu và giá cả nhập khẩu tăng cao làm giảm nhu cầu tiêu dùng hàng nhập ngoại. Với giá cả nhập khẩu cứ tăng cao như hiện nay, về lâu dài nếu sử dụng hàng trong nước sẽ làm giảm đáng kể nhu cầu USD. 

2. Giảm đầu tư của khối nhà nước vì có đến 40% tổng vốn đầu tư cho các dự án này là dùng USD để nhập hàng hóa về. Nếu cứ tiếp tục mức đầu tư cao như hiện nay, sẽ không có đủ ngoại tệ để thanh toán nhập khẩu, gây áp lực lớn lên tỷ giá và dự trữ ngoại hối. Giảm đầu tư dùng trái phiếu chính phủ cũng làm giảm số lãi phải trả do đó cho phép giảm lãi suất huy động vốn cho hệ thống ngân hàng. 

Trong tương lai gần, khi Việt Nam phải thanh toán nợ USD gốc cho các dự án ODA, FDI thì nhu cầu USD (để trả nợ) lại tăng thêm, khi đó bắt buộc phải giảm chi dùng USD để trả số nợ này để giữ mức tín dụng hiện có. Vì nếu bị hạ định mức tín nhiệm tín dụng, Việt Nam sẽ phải trả lãi cao hơn cho các nguồn vốn vay ngoại tệ, hay thậm chí không phát hành được trái phiếu USD như một số tập đoàn đã gặp phải. 

Để phát triển trong ổn định vĩ mô và giảm một cách căn bản nguồn gốc tăng lãi suất, lạm phát và CPI, cần triển khai các biện pháp sau: 

- Nếu muốn có tốc độ tăng trưởng GDP cao và với nguồn vốn đầu tư hạn chế thì cần tập trung đầu tư cho các dự án có hệ số hiệu quả tăng trưởng cao trong các lĩnh vực như công nghiệp và xuất khẩu như: dệt may, giày da, chế biến, dầu khí, nông nghiệp, dịch vụ, các DN có hiệu quả kinh doanh tốt (kể cả DNNN và tư nhân). 

- Nếu vẫn giữ tốc độ tăng trưởng GDP lên đến 7,5% và đầu tư vào các khu vực có hệ số hiệu quả tăng trưởng thấp như hạ tầng (giao thông, xây dựng, bất động sản), chi tiêu công (y tế, giáo dục, chính phủ), dự án không hiệu quả thì sẽ phải dùng nhiều vốn đầu tư, dẫn đến lạm phát khi nguồn vốn không đủ. 

- Phương án nằm giữa hai phương án trên là đầu tư vào các dự án cần thiết và sắp đưa vào sử dụng để sớm đem lại hiệu quả đầu tư. Dừng đầu tư vào các dự án chưa cấp bách và bất động sản, dành vốn đầu tư cho các lĩnh vực đem lại hiệu quả cao, các lĩnh vực xuất khẩu mang về ngoại tệ. Đầu tư hợp lý cho các khối dịch vụ và phúc lợi công cộng (y tế, giáo dục, chính phủ). 

Hiện nay Việt Nam đang nhập siêu nên nền kinh tế bị áp lực kép, gây ra lạm phát cao do áp lực gia tăng đầu tư trong nước và giá cả thế giới tăng cao, khiến CPI cũng tăng theo, làm mất ổn định kinh tế vĩ mô. Với mức nhập siêu 18% kim ngạch XNK, khi giá cả nhập khẩu thấp (kinh tế thế giới suy thoái) sự phát triển do nhập khẩu với nguồn vốn rẻ sẽ đem lại hiệu quả cao. Thế nhưng, khi tình hình kinh tế thế giới phục hồi làm giá cả vật tư tăng lên thì sẽ gây lạm phát và tăng CPI làm mất ổn định nền kinh tế. Thực tế ở Việt Nam hiện nay (lạm phát và tăng CPI, áp lực mất giá nội tệ) cũng khá giống các nước ASEAN (Thái Lan, Indonesia, Malaysia) vào năm 1998 do sự phát triển nóng và đầu tư quá nhiều vào hạ tầng, làm mất cân bằng ngoại hối với USD. 

Năm 2010, các nước ASEAN đã tránh khỏi khó khăn này (lạm phát khá thấp) do sự phát triển hợp lý không còn phụ thuộc quá nhiều vào các yếu tố bên ngoài và nguồn vốn USD. Tương tự Việt Nam, Trung Quốc cũng đang phải đối mặt bài toán tốc độ tăng trưởng, lạm phát và CPI. 

Tuy nhiên, các số liệu tăng trưởng GDP và CPI của Trung Quốc có thể không tin cậy do nguyên nhân chính trị. CPI đầu năm 2011 bị điều chỉnh giảm là do nước này làm giảm trị số của nhóm hàng có giá tăng cao nhiều như thực phẩm, hàng tiêu dùng (viện lý do năm nay chỉ số CPI được điều chỉnh các trọng số trong chu kỳ 05 năm). Do đó, NDT sẽ bị giảm giá trị thực tế so với USD, trong khi tỷ giá danh nghĩa vẫn là 6,3 NDT=1 USD. 

Nếu Việt Nam tiếp tục chạy theo mở rộng đầu tư hạ tầng để có tăng trưởng GDP cao có nghĩa là phải giảm chi tiêu dùng (trong hiện tại) để dành đầu tư phát triển (cho tương lai) thì phải chấp nhận lạm phát cao, gây mất ổn định vĩ mô. Trong bối cảnh lạm phát trên thế giới có xu hướng tăng cao như hiện nay (do Mỹ muốn tiếp tục bơm các gói đầu tư QE), Việt Nam cần giảm chi tiêu đầu tư không hiệu quả, chưa thật cần thiết để tập trung nguồn vốn cho các dự án đem lại hiệu quả cao; chấp nhận mức tăng trưởng GDP hợp lý khoảng 5-6% phù hợp với cơ cấu hiện tại nền kinh tế và khả năng đầu tư của đất nước. 

Nói cách khác, Việt Nam cần cân đối trong phân bổ đầu tư giữa hạ tầng (đầu tư cho tương lai), phúc lợi công cộng (gồm y tế, giáo dục, chính phủ) và hiệu quả kinh tế cao (khối doanh nghiệp) từ đó có tốc độ tăng GDP hợp lý (khoảng 5% là phù hợp). Nếu vẫn muốn có tốc độ tăng GDP cao hơn sẽ phải chấp nhận lạm phát làm tăng mạnh CPI (nghĩa là phải giảm tiêu dùng để tăng đầu tư). 

Chỉ khi Việt Nam tái cấu trúc được nền kinh tế (gồm DNNN và DN tư nhân có hiệu quả cao, TTCK lành mạnh, năng suất lao động cao, cải cách hành chính, phúc lợi công cộng hợp lý) để có mức hiệu quả đầu tư cao (có hệ số sử dụng vốn ICOR thấp) thì lúc đó chúng ta sẽ có tốc độ tăng GDP cao và lạm phát thấp. 


(*) Tác giả hiện là tư vấn chiến lược và CNTT cho khối Chính phủ và DNNN, các tập đoàn, tổng công ty (public sector) và là chuyên gia về chính phủ điện tử (e-Government).

Labels: , , ,